Hiển thị các bài đăng có nhãn Phát triển bền vững. Hiển thị tất cả bài đăng
Chính Phủ mới liệu có khá hơn trong việc bảo vệ rừng và chống biến đổi khí hậu
Những bài học đắt giá mà Việt Nam đã phải đối mặt trong nhiều năm qua đó là tài nguyên rừng càng ngày càng suy giảm, nhiều diện tích rừng gần như bị xoá sổ vĩnh viễn, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiểm hoạ mang tính toàn cầu: biến dạng hệ sinh thái, thay đổi khí hậu và gia tăng các hiểm hoạ thiên nhiên... từng ngày đe doạ trực tiếp đến đời sống con người.
Hình ảnh: Rừng thông rộng 156ha và có tuổi thọ trên 45 năm tại Gia Lai sẽ bị chặt hạ và thay thế thành dự án sân golf thuộc FLC. ( Hình ảnh: Quyết Hồ ) |
Hiểm hoạ luôn được nhắc đến nhưng cứ hết đời này đến đời khác - Chính phủ vẫn luôn không rõ ràng:
Dak Lak là một trong những tỉnh có diện tích rừng đứng đầu cả nước, với tổng diện tích đất có rừng là 640.527ha, phong phú về hệ sinh thái, đa dạng sinh học. Rừng ở Dak Lak nói riêng, Tây Nguyên nói chung có chức năng phòng hộ, bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn cho toàn bộ hệ thống canh tác nông nghiệp, phòng hộ biên giới. Đặc biệt, phần lớn diện tích rừng Dak Lak là rừng đầu nguồn ảnh hưởng đến dòng chảy của các con sông lớn của khu vực duyên hải miền Trung và Đông Nam bộ: hệ thống sông Sêrêpôk, sông Ba, sông Hinh, Đồng Nai... Chính vì vậy, ở Dak Lak rừng không chỉ giữ vị trí quan trọng bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học...mà còn có ý nghĩa quan trọng đến đời sống dân sinh, kinh tế, xã hội...
Tuy nhiên, tổng hợp thống kê hiện trạng rừng từ năm 2006 - 2010 cho thấy: diện tích rừng bị mất của toàn tỉnh là 8.533ha, trong đó 8.447ha rừng tự nhiên. Nguyên nhân chính dẫn tới mất rừng tự nhiên là do chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang các mục đích khác như làm các công trình giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi, trồng cao su.... Ông Phạm Mạnh Cường, Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp - Văn phòng Chính phủ, cho biết tại Kết luận số 12 của Bộ Chính trị năm 2011, chỉ tiêu đặt ra năm 2015 độ che phủ rừng Tây Nguyên là 58%, năm 2020 là 59%. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến nay, Tây Nguyên đã mất 462.000 ha, độ che phủ rừng Tây Nguyên giảm 5,98% và rừng vẫn tiếp tục bị phá. Bên cạnh đó, chất lượng rừng tự nhiên ngày càng suy giảm nghiêm trọng.
Thứ trưởng Thường trực Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng trong nhiều năm qua đã khiến diện tích và trữ lượng rừng Tây Nguyên suy giảm nghiêm trọng. Diện tích rừng Tây Nguyên đang ở mức không thể để thấp hơn được nữa, chỉ còn chưa đầy 46% độ che phủ. Đáng nói, trên 70% diện tích là rừng nghèo kiệt; rừng trung bình và rừng giàu còn lại rất ít, tập trung ở các khu vực rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn. "Tây Nguyên phải bảo vệ được diện tích rừng hiện có. Đối với diện tích phát triển lâm nghiệp, dứt khoát phải trồng rừng và trồng rừng thâm canh" - Thứ trưởng Hà Công Tuấn nhấn mạnh.
Mặc dù rừng Tây Nguyên đã đến ngưỡng không thể để mất thêm nhưng thực tế các tỉnh vẫn đề xuất chuyển đổi hàng ngàn hecta rừng.
Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là Chính Phủ đóng vai trò chỉ đạo như thế nào xuống các ban ngành và các cấp địa phương để quyết liệt bảo vệ rừng, hay chỉ là việc dựng phông bạt như đề ra các chính sách bảo vệ và phát triển rừng nhưng rừng lại " rỗng ".
Hoàn thiện chính sách để khuyến khích người dân bảo vệ, phát triển rừng - Chỉ có thể ở trong cổ tích
Năm 2019 là năm thứ 3 thực hiện Quyết định số 886/QĐ-TTg ngày 16/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020 gắn với thực hiện tái cơ cấu ngành lâm nghiệp. Đây là chương trình nhằm cụ thể hoá mục tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc lên 42% vào năm 2020. Cũng theo lời của Phó Thủ tướng thì không nên " cực đoan " cấm tuyệt đối việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng: " Rừng gắn với bảo vệ môi trường, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống người dân. Do đó, khi thực sự cần thiết vẫn có thể xem xét chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, nhưng phải tính toán và thực hiện một cách chặt chẽ, chỉ chuyển đổi nhằm đạt lợi ích cao nhất cho người dân và cộng đồng. Việc chuyển đổi phải đi đôi với trồng rừng thay thế", Phó Thủ tướng khẳng định.
Giờ thì các bạn có thể hiểu tại sao khi càng hoàn thiện chính sách bảo vệ, phát triển rừng chúng ta lại càng mất rừng nhanh hơn và đó là câu truyện chỉ tồn tại trong cổ tích. Vì nếu chỉ cố gắng hoàn thiện chính sách này mà không đi song hành cùng " nâng cao hiệu quả của chính sách ", khắc phục những điểm bất cập khác trong chính sách đương cử đó là sự liên kết giữa thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Đặc biệt, do chính sách chỉ tập trung vào việc nâng cao diện tích rừng bằng các chương trình trồng mới đã dẫn đến việc xem nhẹ tầm quan trọng của việc phục hồi các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái và công tác bảo tồn sự đa dạng sinh học.
Đây cũng là những lỗ hổng lớn trong chính sách bảo vệ, phát triển rừng của Chính Phủ Việt Nam, đương cử như những vụ việc liên quan tới rừng mà gặp rất nhiều phản đối từ người dân khắp cả nước:
- Phát triển khu du lịch bên trong lõi rừng Quốc Gia Tam Đảo - Dự án thuộc về Sun Group tổng diện tích khai thác 49ha
https://www.tambao.net/ai-bao-ke-cho-sungroup-pha-rung-quoc-gia-tam-dao-bien-thanh-dac-khu-nhu-da-lam-voi-ba-na.html
Nguồn ảnh: Zing |
- Chặt rừng chôn gỗ xuống đất tại Lâm Đồng - Do nhóm được giao nuôi rừng, giữ rừng lại đi phá rừng, khiến hàng ngàn ha rừng mất trắng.
- Làm sân golf ở Gia Lai - Dự án thuộc FLC diện tích khai thác 156ha
https://www.facebook.com/257195361810062/posts/847964612733131/?d=n
- Phá rừng Pơ mu cổ thụ trong Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn
- Phá rừng Pơ mu cổ thụ trong Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn
500 vị đại biểu Quốc Hội khoá mới và Chính Phủ lâm thời sẽ hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam ra sao???
Đây là câu hỏi chắc hẳn chúng ta ai ai cũng đều nghĩ tới khi mà càng ngày sự cảm nhận của mỗi cá nhân sống trong xã hội này phải đối mặt rõ ràng hơn. Suy giảm chất lượng không khí, ô nhiễm môi trường, tình trạng đất đai khô cằn, xói mòn... Liệu Chính Phủ mới và 500 vị đại biểu Quốc Hội khoá mới sẽ làm gì để bớt phải đánh đổi và quan trọng là giữ được nhưng lời nói cam kết về bảo vệ và phải có trách nhiệm với thế hệ mai sau.
Cá nhân tôi hoàn toàn tin vào những nhận định rất đúng của Bộ trưởng bộ TN&MT Trần Hồng Hà khi ông phát biểu: " Bối cảnh thế giới hiện nay đang phải nỗ lực chạy đua với thời gian để giải quyết những thách thức, khủng hoảng mang tính khẩn cấp toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm và mất đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh. Những thách thức và khủng hoảng đó nếu không có hành động kịp thời sẽ để lại những hệ luỵ vô cùng to lớn, không thể đảo ngược lên môi trường sống và sức khoẻ của chính chúng ta hôm nay và các thế hệ mai sau, kèm theo tình trạng đói nghèo, bất bình đẳng và nguy cơ mất an ninh lương thực vì thế cũng ngày một thêm trầm trọng "
Giờ chỉ còn là nhìn vào hành động và sự quyết liệt của Bộ trưởng bộ TN&MT Trần Hồng Hà nói riêng, của Chính Phủ nói chung trong sự thúc đẩy bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
" Trồng cây vì một Việt Nam xanh cho các thế hệ hôm nay và mai sau cũng chính là sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong ứng xử với tự nhiên trong suốt thời gian dài vừa qua, đưa Việt Nam trở thành một tấm gương mẫu mực, một điểm đến hấp dẫn về cuộc sống hài hoà với thiên nhiên trên bản đồ thế giới" - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.
Nguồn ảnh: Internet chụp từ vệ tinh |
Các nhà máy năng lượng mặt trời và gió sẽ sớm rẻ hơn nhiệt than ở tất cả các thị trường lớn trên thế giới.
Xây dựng các nhà máy năng lượng mặt trời và gió mới, sẽ sớm rẻ hơn ở mọi thị trường lớn trên toàn cầu so với việc vận hành các nhà máy nhiệt điện than hiện có. Theo một báo cáo mới làm dấy lên nghi ngờ về khả năng tồn tại trung hạn của ngành xuất khẩu nhiệt điện than trị giá 26 tỷ đô la Úc.
Trong khi một số quốc gia đang di chuyển nhanh hơn các quốc gia khác, phân tích của Tracker Initiative ( Sáng kiến ) theo dõi carbon , một nhà tư tưởng tài chính khí hậu, nhận thấy năng lượng tái tạo là một lựa chọn rẻ hơn so với việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới ở tất cả các thị trường lớn bao gồm Úc và dự kiến sẽ có chi phí thấp hơn điện từ nhà máy than hiện có vào năm 2030 muộn nhất.
Quang điện mặt trời và năng lượng gió đã rẻ hơn điện từ khoảng 60% các trạm than, bao gồm khoảng 70% đội tàu than của Trung Quốc và một nửa các nhà máy của Úc.
Lượng khí thải carbon giảm khi các nhà sản xuất điện rời khỏi than
Tại Nhật Bản, nơi Úc bán gần một nửa than xuất khẩu , năng lượng gió được phát hiện có giá thấp hơn so với các nhà máy than mới và dự kiến sẽ rẻ hơn than hiện tại vào năm 2028. Năng lượng mặt trời ở Nhật Bản được dự báo là lựa chọn tốt hơn than mới đến năm 2023 và than hiện có vào năm 2026.
Câu chuyện tương tự ở Trung Quốc và Hàn Quốc, mỗi nơi chiếm khoảng 15% than nhiệt xuất khẩu của Úc. Ở Trung Quốc, gió đã rẻ hơn bất kỳ điện than nào và điện mặt trời được dự báo sẽ có chi phí trung bình thấp hơn than hiện có vào cuối năm nay. Năng lượng tái tạo ở Hàn Quốc dự kiến sẽ rẻ hơn than hiện có trong vòng hai năm.
Báo cáo thừa nhận xu hướng này không nhất thiết có, nghĩa là năng lượng than sẽ bị đẩy khỏi thị trường trong vòng một thập kỷ. Nó cho biết một số chính phủ đã khuyến khích hoặc bảo lãnh một cách hiệu quả năng lượng than mới thông qua các chương trình quy định hoặc trực tiếp trợ cấp cho các nhà khai thác than hoặc chuyển chi phí cao hơn cho người tiêu dùng.
Nhưng nhóm nhận thấy rằng điện than sẽ phải vật lộn nếu thị trường được định giá công bằng. Nó kêu gọi các chính phủ ngăn chặn các dự án than mới và giai đoạn các nhà máy than hiện tại của chúng tôi, một phần bằng cách thay đổi các quy định để cho phép năng lượng tái tạo cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng.
Matt Gray của Carbon Tracker, đồng tác giả của báo cáo, cho biết các khoản đầu tư than được đề xuất có nguy cơ trở thành tài sản mắc kẹt, bị khóa trong quyền lực ngày càng đắt đỏ trong nhiều thập kỷ. Phân tích cho thấy các nhà phát triển có nguy cơ lãng phí hơn 600 tỷ đô la nếu tất cả các nhà máy đốt than được xây dựng.
Grey Gray cho biết: "Thị trường đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng carbon thấp nhưng các chính phủ không lắng nghe". Có ý nghĩa kinh tế đối với các chính phủ để hủy bỏ các dự án than mới ngay lập tức và dần dần loại bỏ các nhà máy hiện có.
Các công ty khai thác của Úc bị ảnh hưởng bởi giá than nhiệt lớn nhất trong hơn một thập kỷ
Christiana Figueres - cựu giám đốc khí hậu của Liên Hợp Quốc, người giám sát các cuộc đàm phán về thỏa thuận Paris và đang ở Úc trong một chuyến du lịch sách, cho biết nhu cầu về than đã giảm dần, đã bị vượt qua bởi năng lượng khí đốt rẻ hơn ở Mỹ và vượt qua năng lượng mặt trời ở Ấn Độ. Bà cho biết giá năng lượng mặt trời và gió trên bờ và ngoài khơi đang giảm liên tục.
Fig Figueres nói: "Không ai không nên cho rằng nhu cầu than nhiệt từ Úc thực sự co giãn. Không phải thế".
Úc là nước xuất khẩu than nhiệt lớn thứ hai thế giới sau Indonesia, và là thương nhân lớn nhất trong ngành luyện kim, được sử dụng trong sản xuất thép.
Giá trị xuất khẩu của cả hai dạng than giảm đáng kể trong năm ngoái. Giá than giao ngay giảm hơn một phần ba từ 100,73 đô la Mỹ xuống còn 66,20 đô la Mỹ , mức giảm lớn nhất trong hơn một thập kỷ.
Trước khi dịch coronavirus bùng phát, báo cáo tài nguyên và năng lượng hàng quý mới nhất của chính phủ ước tính giá giảm sẽ cắt giảm thu nhập từ xuất khẩu than nhiệt từ mức kỷ lục 26 tỷ đô la trong năm 2018-19 xuống còn 20,6 tỷ đô la trong năm tài chính này.
Về việc sử dụng than, Cơ quan Năng lượng Quốc tế nhận thấy nó đã giảm trong năm ngoái , nhưng dự báo sẽ tăng nhẹ trong 5 năm tới do nhu cầu tăng từ Ấn Độ.
Một phân tích chi tiết hơn của một số nhà tư tưởng cho thấy nhiệt điện than đã giảm khoảng 3% trong năm 2019, mức giảm lớn nhất trong lịch sử sau hơn bốn thập kỷ tăng trưởng gần như không bị gián đoạn trong đó năng lượng than là động lực chính của khủng hoảng khí hậu. Việc sử dụng các nhà máy than của Trung Quốc tiếp tục tăng lên trong khi thế hệ ở Mỹ và châu Âu giảm 16% và gần một phần tư .
Ở Úc, than đen và nâu cung cấp khoảng hai phần ba lượng điện được sử dụng ở 5 quốc gia phía đông, nhưng điều này dự kiến sẽ giảm khi các nhà máy cũ tiếp tục đóng cửa. Theo dự báo của chính phủ liên bang , năng lượng tái tạo dự kiến sẽ đáp ứng gần 50% nhu cầu quốc gia vào năm 2030.
Năm 2018, Hội đồng liên minh chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc đã kiểm tra mức độ nhanh chóng của năng lượng than toàn cầu cần được loại bỏ để mang lại cho thế giới cơ hội hạn chế sự nóng lên toàn cầu xuống 1,5C , mục tiêu được đề cập trong thỏa thuận Paris.
Nó tìm thấy điều này sẽ yêu cầu cắt giảm 59% đến 78% dưới mức 2010 vào năm 2030, trước khi giảm xuống bằng 0.
Nguồn:
https://www.theguardian.com/environment/2020/mar/12/wind-and-solar-plants-will-soon-be-cheaper-than-coal-in-all-big-markets-around-world-analysis-finds
Giá trị xuất khẩu của cả hai dạng than giảm đáng kể trong năm ngoái. Giá than giao ngay giảm hơn một phần ba từ 100,73 đô la Mỹ xuống còn 66,20 đô la Mỹ , mức giảm lớn nhất trong hơn một thập kỷ.
Trước khi dịch coronavirus bùng phát, báo cáo tài nguyên và năng lượng hàng quý mới nhất của chính phủ ước tính giá giảm sẽ cắt giảm thu nhập từ xuất khẩu than nhiệt từ mức kỷ lục 26 tỷ đô la trong năm 2018-19 xuống còn 20,6 tỷ đô la trong năm tài chính này.
Về việc sử dụng than, Cơ quan Năng lượng Quốc tế nhận thấy nó đã giảm trong năm ngoái , nhưng dự báo sẽ tăng nhẹ trong 5 năm tới do nhu cầu tăng từ Ấn Độ.
Một phân tích chi tiết hơn của một số nhà tư tưởng cho thấy nhiệt điện than đã giảm khoảng 3% trong năm 2019, mức giảm lớn nhất trong lịch sử sau hơn bốn thập kỷ tăng trưởng gần như không bị gián đoạn trong đó năng lượng than là động lực chính của khủng hoảng khí hậu. Việc sử dụng các nhà máy than của Trung Quốc tiếp tục tăng lên trong khi thế hệ ở Mỹ và châu Âu giảm 16% và gần một phần tư .
Ở Úc, than đen và nâu cung cấp khoảng hai phần ba lượng điện được sử dụng ở 5 quốc gia phía đông, nhưng điều này dự kiến sẽ giảm khi các nhà máy cũ tiếp tục đóng cửa. Theo dự báo của chính phủ liên bang , năng lượng tái tạo dự kiến sẽ đáp ứng gần 50% nhu cầu quốc gia vào năm 2030.
Năm 2018, Hội đồng liên minh chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc đã kiểm tra mức độ nhanh chóng của năng lượng than toàn cầu cần được loại bỏ để mang lại cho thế giới cơ hội hạn chế sự nóng lên toàn cầu xuống 1,5C , mục tiêu được đề cập trong thỏa thuận Paris.
Nó tìm thấy điều này sẽ yêu cầu cắt giảm 59% đến 78% dưới mức 2010 vào năm 2030, trước khi giảm xuống bằng 0.
Nguồn:
https://www.theguardian.com/environment/2020/mar/12/wind-and-solar-plants-will-soon-be-cheaper-than-coal-in-all-big-markets-around-world-analysis-finds
Người dịch: Green Trees
Forest Man - Làm thế nào một người trồng một khu rừng
Jadev Payeng là một thiếu niên trẻ tuổi khi ông bắt đầu trồng cây đầu tiên và điều đặc biệt ông trồng cây trên một bãi cát cằn cỗi trong vùng Assam của Ấn Độ. Sau nhiều thập niên chăm sóc, diện tích 550 ha hiện nay là khu bảo tồn rừng nơi có động vật hoang dã đa dạng bao gồm một số loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng như hổ và tê giác.
Sự cống hiến của Payeng đối với mảnh đất này bắt đầu vào năm 1979 sau khi một trận lũ lụt đã để lại một lượng lớn rắn chết, tiếp đó là hạn hán và khô cằn khiến các loài động vật không thể tồn tại tại đây. Payeng đã khóc khi chứng kiến cảnh tượng này.
Ông đã bắt đầu trồng từ những cây con với mục đích tạo nơi trú ẩn và bóng râm cho động vật. Cuối cùng, với hàng chục năm nuôi dưỡng và trồng trọt, rừng đã phát triển thành hàng ngàn giống cây. Hiện nay, nó được gọi là rừng Molai, được đặt tên theo Payeng.
Mãi cho đến năm 2008 khi các quan chức Ấn Độ lần đầu tiên biết đến những nỗ lực của Payeng. Họ đã đặt cho ông tên là Forest Man và cuối cùng ông được công nhận vì những hành động của ông và được trao tặng Padma Shri vào năm 2015 - giải thưởng dân sự cao thứ tư ở Ấn Độ.
Payang và gia đình vẫn sống và chăm sóc rừng cho tới tận hôm nay, ông nói: " Chặt tôi trước khi bạn muốn chặt cây của tôi ". Dưới đây là đoạn video ngắn nói về câu chuyện của ông để hiểu thêm làm thế nào một người trồng một khu rừng
Ông đã bắt đầu trồng từ những cây con với mục đích tạo nơi trú ẩn và bóng râm cho động vật. Cuối cùng, với hàng chục năm nuôi dưỡng và trồng trọt, rừng đã phát triển thành hàng ngàn giống cây. Hiện nay, nó được gọi là rừng Molai, được đặt tên theo Payeng.
Mãi cho đến năm 2008 khi các quan chức Ấn Độ lần đầu tiên biết đến những nỗ lực của Payeng. Họ đã đặt cho ông tên là Forest Man và cuối cùng ông được công nhận vì những hành động của ông và được trao tặng Padma Shri vào năm 2015 - giải thưởng dân sự cao thứ tư ở Ấn Độ.
Payang và gia đình vẫn sống và chăm sóc rừng cho tới tận hôm nay, ông nói: " Chặt tôi trước khi bạn muốn chặt cây của tôi ". Dưới đây là đoạn video ngắn nói về câu chuyện của ông để hiểu thêm làm thế nào một người trồng một khu rừng
Đây là những gì bạn có thể làm cho rừng ? Liệu nó có đủ để tạo cho bạn nguồn cảm hứng?
Cộng đồng Green Trees đang đứng trước tình trạng khai thác rừng không bền vững - một trong những mối đe dọa lớn nhất cho tương lai của rừng và khí hậu của chúng ta.
Đã đến lúc phải hành động để bảo vệ rừng khỏi nạn phá rừng và khai thác rừng không bền vững. Đứng lên cho rừng và khí hậu của chúng ta: kêu gọi sự phá rừng bằng không vào năm 2020.
Green Trees ( Sola )
Làm vườn trên ban công: tìm ra tổ hợp cây tương sinh - tương khắc
Cây cối cũng như con người, là sự sống có tính xã hội và tương tác. Nếu như con người hay dựa vào một công cụ nào đó (khoa học hay tâm linh) nhưhệ ngũ hành (Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ) hay tuổi tác để xem người này có hợp hay khắc với người kia không, hợp hay kỵ với nhà cửa đất đai,… thì cây cối cũng vậy. Song câu chuyện của cây cối thì rất rõ ràng, “hệ công cụ” ấy chính là tính khoa học của các yếu tố tự nhiên (nước, nhiệt độ, ánh sáng, đất, nguồn dinh dưỡng, hệ thiên địch, …) và cũng có một phần yếu tố “tâm linh”, chính là “năng lượng giao tiếp” giữa chúng với nhau và với con người. Yếu tố “tâm linh” ấy sẽ được nói đến trong một bài khác, còn ở bài này chỉ bàn về tính tương sinh-tương khắc giữa các loại cây trồng đã được các nhà nông tổng kết lại một cách khoa học và từ kinh nghiệm thực tế.
Một góc vườn tổ hợp tương sinh
Nắm được tính tương sinh–tương khắc của cây sẽ quyết định được việc xen canh, luân canh cây trồng, để có được một khu vườn “khoẻ mạnh”, cho dù là vườn trên ban công.Khu vườn ấy “khỏe” vì đạt được tính Đa dạng (diversity) và Cộng hưởng lợi ích (mutual benefit) giữa các cây.
Các nhà nông chuyên nghiệp (phương Tây) thường lập kế hoạch rất kỹ trước khi làm vườn; trong đó một bước vô cùng thiết yếu là lên được bảng tương sinh- tương thích Trong khi đó ở ta thì ngày nay hiếm có “nhà nông chân chính” hay “chuyên nghiệp” theo cách này mà chỉ còn các “công nhân trồng rau” theo công nghệ lập trình sẵn. Với họ, năng suất là trên hết, và đạt được năng suất thì chịu đánh đổi bằng: công nghệ biến đổi gien tạo giống năng suất cao hoặc ngắn ngày, hoặc chống chịu được sâu bệnh, phải dùng thuốc tăng trưởng các bộ phận của cây (từ rễ, thân, lá, hoa, quả,…), dùng phân bón hóa chất kích thích tăng trưởng, dùng thuốc trừ sâu diệt cỏ. Âu cũng là một sự mông muội trong nhận thức con người về việc “ta là trung tâm vũ trụ” và “chinh phục thiên nhiên”, quyết đảo lộn mọi logic và quy luật tự nhiên. Có lẽ họ không coi thế giới thực vật (hay một khu vườn nhỏ) là một xã hội sống thu nhỏ, càng không hiểu được những quy luật hay các quan hệ chi phối trong hệ thống thu nhỏ đó để mà “xây dựng” hay “bảo dưỡng” nó.
Mô phỏng một tổ hợp tương sinh thu nhỏ
Rất nhiều bạn bè của Người nông dân ban công phàn nàn rằng họ cũng cố gắng trồng rau, trồng hoa cho khu vườn của họ mà cây hay chết quá, rồi sâu bệnh, chuột bọ phá,… mặc dù rất chăm tưới bón. Trong nhiều lý do, thường nhất là việc bỏ qua tính tương sinh–tương khắc hay lịch thời vụ của cây trồng.
Để có được một tổ hợp cây tương sinh tốt, người ta dựa trên các tiêu chí về lợi ích của vườn như sau:
1. Tính che chở: cây lớn sẽ bảo vệ cây bé trước gió hoặc quá nhiều ánh sáng hoặc sức nóng của mặt trời;
2. Tính tương trợ về thể lý: một số loại rau có thể được coi như giá đỡ cho loại khác. Ví dụ một số loài đậu leo được trồng xen với ngô thì ngô sẽ “được coi” như giàn đỡ của Đậu;
3. Tính hấp dẫn côn trùng để hỗ trợ thụ phấn: cần trồng thêm một số cây dụ được ong bướm tới, từ đó côn trùng lân la sang các cây cũng đang ra hoa bên cạnh (bầu, bí, mướp…) “nhân tiện” thụ phấn hộ.
4. Tính cải thiện chất lượng đất: đặc biệt là các loại rau họ đậu sản sinh vi khuẩn cố định đạm cho đất;
5. Tính “bẫy mồi” hay “kỵ dơ”: Có rất nhiều loại cây có mùi gây “dị ứng” với côn trùng hay chuột bọ, hoặc “hấp dẫn côn trùng” bằng màu sắc,từ đó “chia hỏa lực” của côn trùng, tránh gây hại cho cây khác.
Do vậy, nếu ta hiểu được điều đó (hiểu cây, hiểu luật của cây) và biết cách phối hợp các loại với nhau thì chính ta đã tạo được một hệ thống hay một xã hội thu nhỏ đa dạng và cộng hưởng lợi ích, khỏe mạnh. Tất nhiên, không có một tổ hợp cố định nào cho bạn áp dụng vào khu vườn của mình, mà bạn cần phải tìm hiểu và áp dụng một cách linh hoạt. Bạn có thể tham khảo kinh nghiệm của các nhà làm vườn chuyên môn trong việc đưa ra một ma trận các tổ hợp tương sinh-tương khắc thế này:
Ví dụ tham khảo về 1 bảng – tiếng Anh – ma trận Tương sinh–tương khắc. Các bạn bấm vào hình để đọc được chứ nhé
Hoặc bạn có thể tìm hiểu nguyên lý trồng xen tầng (về độ cao) giữa các cây cao (bóng mát), cây bụi vừa và thấp, cây lấy củ, cây phủ mặt đất, cây leo (như hình minh họa) hay nguyên lý về cộng sinh giữa các loại cây ăn quả, cây ăn lá, cây lấy củ, cây gia vị (mùi), cây hoa, cây hấp dẫn côn trùng, cây cải tạo đất… Tất cả đều rất linh hoạt dựa vào sự ham tìm hiểu, yêu làm vườn và tính sáng tạo của bạn.
Mô phỏng ví dụ tham khảo về xen tầng
Trông có vẻ phức tạp với bạn để tự mình đưa ra một tổ hợp tương sinh cho khu vườn của bạn, song xin mách nhỏ một số “mẹo” hay kinh nghiệm học được để nhớ được một số tổ hợp cơ bản mà các nhà nông chuyên nghiệp “mách cho”. Ví dụ các tổ hợp “Ba chị em” (Ngô- Đậu- Bí Ngô) hay “Bộ tứ chiến binh” (Măng tây-Cà Chua-Bạc Hà-Mùi Tây) là những tổ hợp “không phải bàn cãi” về lợi ích cộng hưởng” của nó đem lại.
Minh họa tổ hợp “Ba chị em” nổi tiếng
Một vài gợi ý về tổ hợp tương sinh tương khắc cho hiệu quả rõ rệt từ vườn ban công của Người làm vườn là Cà chua-Húng quế tím-và Bí ngô (hoặc Su su, Mướp, Dưa chuột) hay Xà lách-Cải bắp-Hành (Tỏi)-Dưa leo (hay Bí ngô) và luôn trồng xen hoa Cúc lá nhám (để hấp dẫn côn trùng và màu sắc đẹp, hay hoa Hướng dương. Bạn có thể tham khảo “thực đơn” mà Người làm vườn ban công tìm hiểu từ kinh nghiệm của những Người nông dân mặt đất khác, với các loại kết hợp rau ta, như sau nhé:
.
Cuối cùng, Người nông dân ban công chúc bạn hào hứng tìm cho khu vườn của mình một bộ tổ hợp tương sinh thích hợp cho khu vườn của mình. Bạn có thể tìm hiểu bằng các từ khóa tiếng Anh “Planting Companion” để tìm hiểu về các tổ hợp tương sinh-tương khắc hay cụm từ “Crop calender” để biết lập thời gian biểu cho các cây trồng của mình không bị trái vụ.
- Người nông dân Dao Ngo-
1/7, áp dụng khung giá tính thuế tài nguyên mới
Thông tư số 44/2017/TT-BTC quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau vừa được Bộ Tài chính ban hành sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2017.
Theo Thông tư này, các nhóm, loại tài nguyên không quy định khung giá tính thuế tài nguyên gồm: Nước thiên nhiên dùng sản xuất thủy điện; dầu thô, khí thiên nhiên, khí than.
Theo đó, giá tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng sản xuất thủy điện thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 4, còn giá tính thuế tài nguyên đối với dầu thô, khí thiên nhiên, khí than thực hiện theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 4 Nghị định số 50/2010/NĐ-CP.
Khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau, gồm: Khung giá tính thuế tài nguyên đối với khoáng sản kim loại (Phụ lục I); khoáng sản không kim loại; sản phẩm của rừng tự nhiên (Phụ lục III); hải sản tự nhiên; nước thiên nhiên và yến sào thiên nhiên.
Căn cứ Khung giá tính thuế tài nguyên ban hành tại Thông tư này, UBND cấp tỉnh ban hành Bảng giá tính thuế tài nguyên áp dụng tại địa phương.
Đối với loại tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến thành sản phẩm công nghiệp mới bán ra, giá tính thuế tài nguyên khai thác là giá đã trừ đi chi phí chế biến theo quy định tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 152/2015/TT-BTC nhưng phải đảm bảo nằm trong Khung giá tính thuế tài nguyên.
Trường hợp điều chỉnh, bổ sung khung giá tính thuế tài nguyên khi giá tài nguyên phổ biến trên thị trường biến động lớn, tức là tăng từ 20% trở lên so với mức giá tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với mức giá tối thiểu của Khung giá tính thuế tài nguyên do Bộ Tài chính ban hành hoặc phát sinh loại tài nguyên mới chưa được quy định trong Khung giá tính thuế tài nguyên.
Đối với trường hợp giá tài nguyên biến động lớn phải điều chỉnh ngoài Khung giá tính thuế tài nguyên, trong thời gian 30 ngày, Sở Tài chính phối hợp với Cục Thuế, Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo UBND cấp tỉnh có văn bản trao đổi với Bộ Tài chính trước khi quyết định ban hành văn bản điều chỉnh Bảng giá tính thuế tài nguyên.
Đối với loại tài nguyên mới chưa được quy định trong Khung giá tính thuế tài nguyên, Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở Tài nguyên và Môi trường căn cứ giá giao dịch phổ biến trên thị trường hoặc giá bán tài nguyên đó trên thị trường trình UBND cấp tỉnh ban hành văn bản quy định bổ sung Bảng giá tính thuế đối với loại tài nguyên này.
Các trường hợp cần điều chỉnh, bổ sung khung giá tính thuế tài nguyên quy định tại Khoản 1 Điều này cần gửi về Bộ Tài chính để làm căn cứ điều chỉnh Khung giá tính thuế tài nguyên cho phù hợp, chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày có phát sinh các trường hợp điều chỉnh, bổ sung Bảng giá tính thuế tài nguyên.
Đối với loại tài nguyên trong Bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh ban hành và đang có hiệu lực thi hành, phù hợp với Khung giá tính thuế tài nguyên ban hành theo Thông tư này thì tiếp tục áp dụng theo Bảng giá do UBND cấp tỉnh đã ban hành.
Đối với loại tài nguyên trong Bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh ban hành không còn phù hợp với Khung giá tính thuế tài nguyên ban hành kèm theo Thông tư này thì UBND cấp tỉnh ban hành văn bản điều chỉnh cho phù hợp, chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành.
moitrupng.co.vn (TH/ TBTC
Lợi ích của năng lượng gió với con người và môi trường
Năng lượng gió mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho các khách hàng mà còn cho cả xã hội. Một vài lợi ích có thể nhìn thấy rõ ràng nhưng còn những lợi ích khác thì không thể nhìn thấy được. Dưới đây là một vài lợi ích của năng lượng gió.
Một môi trường trong sạch
Hiện nay, năng lượng được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch chiếm khoảng 67% năng lượng được cung cấp cho toàn cầu, nhưng lại đang làm ô nhiễm môi trường trầm trọng vì khí carbon dioxide mà chúng thải ra. Cacbon dioxide đã được chứng minh là khí nhà kính tạo ra những thay đổi khủng khiếp về môi trường và đang dần dần hủy hoại cuộc sống của chúng ta.
Tua-bin điện gió tạo ra năng lượng không tạo ra khí carbon dioxide. Mất khoảng 2 đến 3 tháng để sản xuất ra tua-bin. Rồi sau đó có thể lắp đặt, hoạt động. Tuổi thọ trung bình của tua-bin là 20 năm, trong thời gian hoạt động cần phải bảo trì, giám sát thường xuyên.
Theo báo cáo của Stern năm 2007 chỉ ra rằng nếu con người không có hành động nào để chống lại sự thay đổi của khí hậu thì sẽ làm cho GDP của toàn cầu bị mất đi từ 5 đến 20%.
Theo đánh giá của EWEA (Hiệp hội năng lượng gió Châu Âu) tiềm năng điện gió được lắp đặt ở Châu Âu đến cuối năm 2007 có tổng công suất là 56,5 GW, sẽ tránh phải thải ra 90 triệu tấn CO2 mỗi năm. Con số này tương đương với 45 triệu ô tô đang chạy trên đường.
Đến năm 2010, với 80GW dự kiến được lắp đặt được đưa vào hoạt động ,thì lượng CO2 hàng năm không bị thải ra môi trường lên tới 135 triệu tấn. Con số này chiếm hơn 35% khí thải nhà kính cần cắt giảm trong cam kết của Châu Âu theo những quy định của Nghị Định Thư Kyoto.
Đến năm 2020, điện gió trên biển và trên cạn sẽ được lắp đặt ở Châu Âu có tổng công suất là 180GW. Con số này cũng tương đương với 325 triệu tấn CO2 không thải ra môi trường
Ngoài việc có thể cắt giảm được khí CO2, điện gió cũng tránh được chất thải hóa học độc hại như là thủy ngân và chất gây ô nhiễm môi trường. Ô nhiếm môi trường có thể gây ra tác động xấu đến sức khỏe của con người bao gồm các bệnh liên quan đến tim mạch, các bệnh về hô hấp ,ung thư …..
Năng lượng gió không có chất phóng xạ hoặc gây ô nhiễm nguồn nước. Sử dụng năng lượng điện gió không làm suy kiện, hay phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn đảm bảo tận dụng tốt nguồn tài nguyên từ gió
Làm giảm giá điện
Đưa năng lượng gió vào hệ thống cấp điện có thể làm giảm tổng thể giá điện.
Có hai lý do cơ bản để giải thích: một là tác động liên quan của nó đến nguồn khác, và thứ hai là từ việc điện gió không tạo ra khí CO2.
Đầu tiên, bởi vì tua-bin gió không tiêu thụ nhiên liệu, chi phí bảo trì không lớn. Điều này có nghĩa là một khi các trang trại gió được xây dưng nó sẽ khiến cho nền kinh tế đỡ phải chi trả một khoản tiền lớn để mua nhiên liệu mà vẫn có thể khai thác tối đa tiềm năng từ gió.
Thứ hai, vì điện gió không thải ra khí CO2 nên các nhà đầu tư có thể tiết kiệm một khoản tiền trong việc đầu tư các loại máy móc thân thiện với môi trường hay các khoản phí khi thải ra khí CO2 vượt mức cho phép.
Như tại Đan Mạch theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu quốc gia RISO đã chỉ ra rằng chi phí mà người tiêu dùng điện miền Tây (không bao gồm phí truyền tải và phân phối và VAT) sẽ cao hơn từ 7 đến 13% vào năm 2005 nếu điện gió không được xây dựng. Điều này được hiểu là điện gió đã tiết kiệm được từ 0.3 đến 0.5cent cho mỗi kWh tiêu thụ
Tạo công ăn việc làm
Điều này đang được chứng minh tại quốc gia có nền công nghệ phát triển, các nước tiêu thụ phần lớn năng lượng từ điện gió
Một minh chứng sống động nhất là tại Châu Âu. Dựa trên số liệu thống kê từ Eurostat, việc làm trong lĩnh vực năng lượng gió sẽ chiếm khoảng 7.3% việc làm trong ngành điện, khí đốt, hơi nước, cấp nước. Hiện tại, năng lượng gió cung cấp khoảng 3.7% nhu cầu năng lượng của EU.
Trong tương lai, theo EWEA các dự án của ngành năng lượng gió sẽ chiếm khoảng 184.000 nhân công vào năm 2010 (bao gồm cả công nhân trực tiếp và gián tiếp) và đạt 318.000 vào năm 2020 nếu Liên minh Châu Âu đạt được mục tiêu là sử dụng 20% nguồn năng lượng tái tạo.
moitruong.com.vn (TH)
Đề xuất tăng chi ngân sách cho bảo vệ môi trường từ 2018
Bộ Tài Nguyên & Môi trường (TN&MT) mới đây đã có báo cáo gửi Chính phủ về công tác bảo vệ môi trường năm 2016 trên cả nước. Dựa trên tình hình thực tế, Bộ TN&MT đề xuất tăng chi ngân sách cho bảo vệ môi trường lên 1,5%/năm kể từ 2018.
Theo Bộ TN&MT, năm 2016, môi trường không khí tại nhiều đô thị lớn vẫn tiếp tục bị ô nhiễm bụi. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, chất lượng không khí tại nhiều đô thị cũng đang có xu hướng được cải thiện hơn.
Kết quả thống kê cho thấy, năm 2016, tại Hà Nội, tỷ lệ ngày trong năm có nồng độ bụi vượt QCVN 05:2013/BTNMT khoảng 23%, giảm gần 7% so với năm 2015, một số “điểm đen” về ô nhiễm không khí ở một số đô thị cũng đã được cải thiện.
Chất lượng môi trường đất hiện nay còn tương đối tốt. Tuy nhiên, tình trạng thoái hóa đất, khô hạn và ô nhiễm cục bộ đã diễn ra tại một số vùng chuyên canh nông nghiệp do sử dụng không hợp lý phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Ô nhiễm do chất thải từ các hoạt động công nghiệp, xây dựng, sinh hoạt tại các vùng ven đô thị lớn, đặc biệt là ô nhiễm do kim loại nặng trong đất tại các khu vực này có xu hướng gia tăng.
Tính đến năm 2016, Việt Nam vẫn được ghi nhận là một trong những nước có đa dạng sinh học cao với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật và nguồn gen phong phú và đặc hữu.
Nước ta có khoảng 7.500 chủng vi sinh vật, 20.000 loài thực vật bậc cao trên cạn và dưới nước, trong đó gần 11.000 loài động vật trên cạn và 10.500 loài động vật dưới nước. Tuy nhiên, đa dạng sinh học nước ta đang tiếp tục bị suy giảm nhanh, tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày một tăng. Các hệ sinh thái biển, rạn san hô đang tiếp tục đối mặt với nguy cơ suy thoái.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường, theo Bộ TN&MT, đến từ phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Ngoài ra, các nguồn thải lớn, dự án tác động xấu tới môi trường cũng là các nguyên nhân lớn khác.
Trong năm 2016, cả nước có khoảng 50 vụ việc gây ô nhiễm môi trường, gây bức xúc, nổi cộm được dư luận quan tâm. Trong đó, đặc biệt là sự cố môi trường biển tại 04 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế làm hải sản chết hàng loạt do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra.
Trước tình hình đó, Bộ TN&MT đã rút kinh nghiệm và đưa ra các đề xuất, kiến nghị trong giai đoạn tới. Đầu tiên, Bộ TN&MT đề xuất tăng cường các hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội về bảo vệ môi trường, trong đó tập trung vào các vấn đề nóng, nổi cộm, như các dự án lớn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Ngoài ra, Bộ cũng đề xuất giám sát các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề chưa có hạ tầng bảo vệ môi trường; công tác thu gom, xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại và nước thải sinh hoạt, y tế và công nghiệp; công tác quản lý, xử lý các khu vực môi trường bị ô nhiễm do hóa chất thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu.
Cuối cùng, Bộ TN&MT kiến nghị Chính phủ xây dựng và thực hiện một số cơ chế đột phá để tăng cường nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể, xem xét, tăng nguồn chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp bảo vệ môi trường lên 1,5%/năm trong tổng chi ngân sách nhà nước từ năm 2018.
Ngoài ra, Bộ cũng kiến nghị Việt Nam có cơ chế sàng lọc, hạn chế các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực sản xuất có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao; cơ chế kiểm soát đặc biệt đối với các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao.
moitruong.com.vn (TH/ KTĐT
Kinh tế xanh giúp giảm đói nghèo kinh niên
Báo cáo của Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) khẳng định mô hình kinh tế xanh mới sẽ giúp giảm bớt tình trạng đói nghèo kinh niên ở nhiều nước, đồng thời hạn chế tối đa hành động xâm hại của con người đối với hệ sinh thái tự nhiên.
Xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt nam
UNEP đã phát động chiến lược kinh tế mới nhằm đảm bảo tương lai ổn định cho Trái Đất và kêu gọi đầu tư 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, tương đương 1.300 tỷ USD mỗi năm, cho 10 lĩnh vực then chốt.
Trong một báo cáo, UNEP nhấn mạnh mỗi năm thế giới cần đầu tư 350 tỷ USD cho ngành năng lượng, 200 tỷ USD cho giao thông, hơn 100 tỷ cho quản lý nước và rác thải và 134 tỷ USD lần lượt cho xây dựng và du lịch.
UNEP ước tính đầu tư 1,25% GDP toàn cầu vào hiệu quả năng lượng và năng lượng tái sinh sẽ làm giảm 9% nhu cầu năng lượng thiết yếu toàn cầu vào năm 2020 và 40% vào năm 2050.
Trong khi đó, số việc làm ở khu vực năng lượng sẽ tăng thêm 20% và chi phí nhiên liệu cũng như nguồn vốn để phát điện sẽ tiết kiệm được trung bình 760 tỷ USD trong thời gian từ năm 2010-2050. Cùng với đó khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên toàn cầu sẽ giảm xuống dưới mức an toàn 450 ppm vào năm 2050 trong nền kinh tế xanh.
30 tỷ USD thực hiện kinh tế xanh tại Việt Nam
Dưới sự hỗ trợ đỡ của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã triển khai kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh Việt Nam nhằm đóng góp vào sự phát triển bển vững của thế giới.
Tổng kinh phí để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh ước khoảng 30 tỷ USD, hiện đã huy động được 7,52 triệu USD, trong đó Chính phủ Bỉ đóng góp 6,83 triệu USD, Chính phủ Việt Nam đóng góp 680.000 USD lập quỹ hỗ trợ tăng trưởng xanh.
Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, có 17 giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược tăng trưởng xanh và quan trọng nhất là đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng; giảm tiêu hao năng lượng trong sản xuất, vận tải, thương mại; từng bước thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong sản xuất công nghiệp và giao thông như sử dụng nguồn năng lượng mới, sạch, tái tạo, ít phát thải khí nhà kính; giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững bằng cách chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng; tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, trồng rừng nâng tỷ lệ che phủ của rừng lên 45% (năm 2020).
Chiến lược cũng đề cập rõ đến giải pháp hạn chế dần các ngành kinh tế làm phát sinh chất thải lớn hoặc gây ô nhiễm, suy thoái môi trường song song với phát triển các ngành “sản xuất xanh” trên cơ sở kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải hiệu quả.
Hàng trăm triệu người có thể thoát nghèo
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Tổ chức Sáng kiến Việc làm Xanh (GJI) dự báo tiến trình toàn cầu chuyển sang nề kinh tế xanh có thể tạo thêm tới 60 triệu việc làm mới và hàng trăm triệu người có thể thoát nghèo trong 2 thập kỷ tới.
Phó Tổng Thư ký Liên Hợp quốc và Tổng Giám đốc Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) Achim Steiner cho rằng dự báo của ILO và GJI có thể còn bao gồm hàng triệu người nữa được thoát nghèo và chất lượng cuộc sống sẽ được cải thiện không chỉ cho các thế hệ trong tương lai mà cả cho thế hệ hiện nay.
Khánh Ly (MOITRUONG.COM.VN/TH)
Đọc nhiều nhất
-
200 câu hỏi và trả lời về môi trường
Mời mọi người tham khảo đáp án của 200 câu hỏi về môi trường theo đường link sau: https://drive.google.com/file/d/0B1KcEgJqwSp9bnBaemw0e... -
Lợi ích của năng lượng gió với con người và môi trường
Năng lượng gió mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho các khách hàng mà còn cho cả xã hội. Một vài lợi ích có thể nhìn thấy rõ ràng như... -
245 Người dân Hà Nội gửi kiến nghị phản đối dự án Sun Grand City Quảng An - Hồ Tây
Ngày 30/9/2017, với những lời kêu gọi được đăng tải trên mạng facebook phản đối việc thi công dự án Sun Grand City Quảng An... -
Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than
Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà ... -
Tòa án Thượng thẩm Đài Loan tiếp tục bác đơn của gần 8.000 nạn nhân Formosa Hà Tĩnh
Họp báo trước Toà Thượng thẩm ở Đài Bắc của Hội Công lý cho nạn nhân Formosa hôm 17/4/2020. Photo: RFA Sáng 17-4, đại d... -
Thành viên Green Trees - Cao Vĩnh Thịnh tiếp tục bị công an và an ninh Việt Nam gây sức ép
Ảnh trên trang cá nhân của Cao Vĩnh Thịnh chụp cùng ngài đại sứ quán Czech trong ngày kỷ niệm Quốc tế Nhân Quyền. Ngày 25/12/202... -
Thảm họa Formosa, một năm nhìn lại - Phần 1
Ảnh Vietbest Phần 1: THẢM HỌA VẪN TIẾP DIỄN 1. Môi trường sau thảm họa Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thảm họa môi sinh trư...
Tham khảo
Phân loại
Tin môi trường
(75)
Môi trường
(43)
Tin tức
(31)
Formosa
(29)
Tin hoạt động
(28)
Sự kiện
(24)
Bình luận & Nhận định
(23)
Video
(18)
Kiến thức về môi trường
(17)
Báo cáo môi trường
(8)
Luật môi trường
(8)
Phát triển bền vững
(8)
Tư liệu
(8)
Chiến lược & Chính sách
(4)
Kinh tế xanh
(4)
Tin công nghệ
(4)
Tiết kiệm năng lượng
(3)
Tản mạn
(1)
Theo thời gian